Bệnh sử
Bệnh nhân nam sinh năm 1971 đến từ Lào Cai, đến khám ngày 22/4/2023 trong tình trạng vùng cổ chân hai bên phù nề, thay đổi sắc tố da, vùng da quanh 1/3 dưới cẳng chân hai bên xơ cứng, đặc biệt, có các vết loét tĩnh mạch lớn ở mắt cá trong chân phải và 1/3 dưới mặt ngoài cẳng chân trái. Các vết loét hình thành từ khoảng 1 năm trước khi bệnh nhân đến khám, không tự lành và ngày càng rộng, gây đau nhức kéo dài. Ngoài ra, từ đùi xuống đến bàn chân hai bên xuất hiện các búi giãn tĩnh mạch với kích thước lớn nhỏ khác nhau. Bệnh nhân có các triệu chứng rõ ràng của bệnh tĩnh mạch mạn tính như nhức mỏi bắp chân khi đứng, chuột rút buổi tối.
Quá trình khai thác bệnh sử ghi nhận bệnh nhân có tiền sử mắc viêm gan virus B mạn tính và tiền sử tiêm chích ma túy.

Chẩn đoán và điều trị
Thăm khám lâm sàng dễ dàng nhận định tình trạng loét tĩnh mạch đang tiến triển ở bệnh nhân (giai đoạn C6 theo phân loại CEAP-2020). Đặc biệt vết loét ở cẳng chân trái có đáy rộng với diện tích lớn.
Đọc thêm: Các cấp độ của bệnh tĩnh mạch mạn tính chi dưới
Siêu âm Doppler hệ mạch chi dưới cho thấy tình trạng suy đồng thời cả hệ tĩnh mạch nông và tĩnh mạch sâu hai bên. Với hệ tĩnh mạch nông, bệnh nhân bị suy tĩnh mạch hiển lớn chân phải, tĩnh mạch hiển lớn và tĩnh mạch hiển bé chân trái, cùng nhiều nhánh xuyên rải rác khắp từ đùi xuống tới cẳng chân hai bên, tạo thành những búi giãn tĩnh mạch có thể nhìn thấy dưới da. Hệ thống động mạch chi dưới không bị hẹp tắc. Không ghi nhận có thông động tĩnh mạch.
Nhận định đây là ca bệnh phức tạp, cần điều trị lâu dài và liên chuyên khoa, chúng tôi đưa ra phác đồ điều trị bằng can thiệp laser nội mạch kết hợp tiêm xơ để đóng các tĩnh mạch hiển, tĩnh mạch xuyên bị mất chức năng, giúp cải thiện tình trạng ứ máu và rối loạn vi tuần hoàn ở cẳng chân. Đồng thời, kết hợp với Khoa liền vết thương của Viện Bỏng Quốc gia xử trí các vết loét. Bệnh nhân đã được can thiệp laser tĩnh mạch hiển lớn phải và tĩnh mạch hiển bé trái, tiêm xơ các thân tĩnh mạch, các búi giãn tĩnh mạch nhánh và phần ra nông của các tĩnh mạch xuyên cả hai chân. Vết loét tĩnh mạch được xử trí sau khi điều trị tĩnh mạch khoảng 1 tháng.
Ngoài ra, liệu pháp nén ép bằng tất áp lực 30-40mmHg, tập vận động chân mỗi ngày 30 phút, và tăng cường dinh dưỡng cũng được hướng dẫn cho bệnh nhân tự thực hiện tại nhà.
Kết quả
Sau hơn 1 năm kể từ khi bắt đầu điều trị, bệnh nhân quay lại tái khám với chúng tôi tháng 7/2024. Hai chân của bệnh nhân đã phục hồi ngoạn mục, tình trạng thâm chân và các vùng tăng sắc tố đã gần như biến mất hoàn toàn. Các vết loét tĩnh mạch đã liền sẹo hoàn toàn và không có dấu hiệu tái phát. Không còn tình trạng cứng da và phù nề quanh cổ chân hai bên. Các thân tĩnh mạch hiển sau can thiệp đóng hoàn toàn. Một số nhánh tĩnh mạch xuyên tiếp tục suy ở đùi được chúng tôi ghi nhận và tiến hành tiêm xơ bổ sung bằng Polidocanol tạo bọt. Các triệu chứng của bệnh tĩnh mạch mạn tính đã thuyên giảm khoảng 80-90% theo đánh giá của chính bệnh nhân.


Ca bệnh được khám và điều trị tại Trung tâm Tĩnh mạch An Viên Hà Nội
Bàn luận
Thống kê ở các quốc gia phát triển cho thấy loét tĩnh mạch chiếm khoảng 70% các trường hợp vết loét chi dưới, trong đó có đến hơn một nửa các trường hợp loét kéo dài trên một năm.
Đặc điểm của các vết loét tĩnh mạch là thường nằm trên một vùng da bị xơ cứng, chàm, viêm và tăng sắc tố (do đã trải qua giai đoạn C4 của bệnh tĩnh mạch mạn tính). Vị trí loét thường là ngay phía trên mắt cá trong, ngoài ra có thể gặp ở mặt trước xương chày và quanh bắp chân, hiếm thấy ở bàn chân. Vết loét có bờ rõ ràng, rìa vết loét ngang bằng với nền vết loét, hoặc nhô cao hơn khi loét tiến triển mạn tính.
Xử lý triệt để suy giãn tĩnh mạch là yếu tố tiên quyết để làm lành vết loét, do loét không thể liền được và dễ tái phát khi còn tình trạng ứ máu hệ tĩnh mạch, dẫn tới rối loạn vi tuần hoàn và thiểu dưỡng mô. Tất cả các phương pháp điều trị đều có thể được áp dụng nhằm đóng các tĩnh mạch suy giãn, tuy nhiên cần phải cân nhắc đến độ tuổi, khả năng vận động, toàn trạng và điều kiện kinh tế của người bệnh, do thường ở giai đoạn này, quá trình trị liệu thường phải kéo dài với nhiều buổi điều trị.
Điều trị vết loét tĩnh có thể được điều trị song song hoặc sau khi điều trị tĩnh mạch. Điều trị loét tĩnh mạch cần sự kết hợp của ba yếu tố:
- Điều trị nội khoa, trong đó liệu pháp nén ép là phương pháp quan trọng hàng đầu.
- Chăm sóc tại chỗ vết loét.
- Kiểm soát nhiễm trùng và bảo vệ vùng da quanh vết loét.
Tóm lại, quá trình điều trị bệnh nhân loét tĩnh mạch đòi hỏi sự kết hợp giữa điều trị nguyên nhân (chứng suy giãn tĩnh mạch) và điều trị tại chỗ (chăm sóc vết loét). Kết quả điều trị thường rất tốt nếu bệnh nhân tuân thủ đúng liệu trình điều trị, tuân thủ liệu pháp nén ép (mang tất áp lực) và biết cách chăm sóc vết loét tại nhà.