Tĩnh mạch là những mạch máu có chức năng dẫn máu từ mô về tim. Cùng với động mạch và mao mạch, tuần hoàn tĩnh mạch là cấu phần hoàn thiện chu trình tuần hoàn của máu trong cơ thể.
Đặc điểm hình thái tĩnh mạch
Tĩnh mạch bắt nguồn từ mao mạch: khi ở mao mạch bắt đầu xuất hiện các sợi cơ trơn thì đó là tiểu tĩnh mạch.
Thiết diện của mỗi tĩnh mạch càng về gần tim càng lớn. Nhưng tổng thiết diện của cả hệ tĩnh mạch thì giảm đi khi về gần tim. Tổng thiết diện của hệ tĩnh mạch lớn hơn của hệ động mạch. Mỗi động mạch lớn thường có hai tĩnh mạch đi kèm. Trên đường đi của tĩnh mạch thường có những chỗ phình ra tạo thành các xoang tĩnh mạch.

Thành của tĩnh mạch mỏng hơn thành động mạch, cũng được cấu tạo bởi ba lớp. Lớp trong cùng là lớp nội mạc. Ở từng đoạn lại nhô ra những nếp gấp hình bán nguyệt làm thành những van tĩnh mạch. Hệ thống van tĩnh mạch phát triển ở phần dưới của cơ thể, hướng cho máu chảy theo chiều từ dưới lên tim. Lớp giữa gồm các sợi liên kết và sợi cơ trơn, trong đó các sợi cơ vòng và cơ dọc đan lẫn với sợi liên kết. Lớp ngoài mỏng, gồm toàn các sợi liên kết.
Đọc thêm: Dòng trào ngược trong suy giãn tĩnh mạch là gì?
Đặc điểm chức năng tĩnh mạch
Hệ tĩnh mạch có khả năng chữa máu lớn vì số lượng tĩnh mạch nhiều hơn động mạch, thiết diện của tĩnh mạch lớn, khả năng giãn lớn và có nhiều xoang tĩnh mạch. Thể tích máu trong hệ thống tĩnh mạch chiếm khoảng 64% tổng lượng máu của cơ thể. Khi thể tích tuần hoàn tăng đột ngột tĩnh mạch sẽ giãn ra để chứa máu, tránh được gánh nặng cho tim.
Tĩnh mạch có tính đàn hồi yếu, nhưng tĩnh mạch cũng có khả năng co lại nhờ các sợi cơ trơn của thành tĩnh mạch.
Một số cơ quan đặc biệt có khả năng chứa máu:
- Lách: lách có khả năng chứa khoảng 150ml máu.
- Gan: trong gan có thể chứa hàng trăm ml máu.
- Các tĩnh mạch lớn ở bụng có thể đóng góp khoảng 300 ml máu cho hệ tuần hoàn.
- Các đám rối tĩnh mạch dưới da có thể chứa hàng trăm ml máu.
Những nguyên nhân của tuần hoàn tĩnh mạch
Do tim
Sức bơm của tim: máu chảy được trong hệ thống tĩnh mạch là nhờ chênh lệch áp suất giữa đầu tĩnh mạch và cuối tĩnh mạch, sự chênh lệch này là do tim. Lực đẩy máu của tim thắng sức cản của mạch nên máu chảy trong động mạch với một áp suất nhất định, áp suất này giảm dần từ động mạch đến mao mạch. Ở cuối mao mạch, máu vẫn có một áp suất. Áp suất máu ở đầu tĩnh mạch vào khoảng 10 mmHg, còn ở cuối tĩnh mạch và ở tâm nhĩ phải là 0 mmHg, do đó máu chảy được từ tĩnh mạch về tim.
Sức hút của tim: trong lúc tâm thất trương, áp suất trong tâm thất giảm xuống tạo ra sức hút máu từ tâm nhĩ xuống tâm thất và từ tĩnh mạch về tim. Mặt khác khi tâm thất thu bơm máu vào động mạch làm sàn van nhĩ thất hạ xuống do phản lực gây ra, làm cho tâm nhĩ giãn rộng ra, áp suất trong tâm nhĩ giảm xuống cũng có tác dụng hút máu từ tĩnh mạch về tim.
Do lồng ngực
Bình thường áp suất trong lồng ngực hơi thấp hơn so với áp suất khí quyển, do áp suất âm trong khoang màng phổi. Khi hít vào, thể tích lồng ngực rộng ra làm áp suất càng âm hơn. Áp suất trong lồng ngực giảm làm cho các tĩnh mạch lớn ở đây giãn ra, áp suất trong tĩnh mạch giảm hút máu từ tiểu tĩnh mạch và mao mạch về tim.
Một yếu tố nữa là bình thường quả tim chiếm một thể tích trong lồng ngực. Khi tâm thu, Tim co nhỏ lại làm khoang lồng ngực rộng hơn, áp suất trong thực càng âm hơn, làm cho các tĩnh mạch trong lồng ngực và tâm nhĩ giãn ra tạo điều kiện hút máu về tim.
Do co cơ
Tĩnh mạch nằm xen vào các sợi cơ nên khi cơ co bóp, ép vào các mạch máu dẫn máu chảy theo chiều van trong tĩnh mạch. Ở chi, khi các cơ vận động dồn máu đi lên tim. Ở bụng, nhờ co cơ thẳng và cơ thành bụng mà máu được dồn về tim. Vì vậy, nguyên nhân co cơ dồn máu tĩnh mạch về tim được gọi là “bơm cơ”.

Do động mạch
Động mạch lớn và tĩnh mạch lớn đi chung trong một bao xơ. Thường một động mạch đi kèm với hai tĩnh mạch, mỗi động mạch đập có tác dụng ép tĩnh mạch, dẫn máu trong tĩnh mạch về tim.
Ảnh hưởng của trọng lực
Khi đứng, trọng lực ảnh hưởng tốt đến việc đưa máu tĩnh mạch phía trên (đầu, mặt, cổ) về tim và ảnh hưởng không thuận lợi đối với tuần hoàn phía dưới tim. Tuy nhiên các tĩnh mạch ở phần dưới tim có hệ thống van một chiều nên máu vẫn chuyển dịch về tim bình thường.
Huyết áp tĩnh mạch
Máu chảy được trong tĩnh mạch là nhờ các nguyên nhân đã trình bày ở trên. Máu chảy trong tĩnh mạch có một áp suất gọi là huyết áp tĩnh mạch.
Huyết áp tĩnh mạch có trị số thấp. Huyết áp tĩnh mạch trung tâm là áp suất ở chỗ tĩnh mạch chủ đổ về tâm nhĩ phải, có chỉ số thấp bằng áp suất trong tâm nhĩ phải (là 0 mmHg). Huyết áp tĩnh mạch trung tâm có thể tăng lên tới 20 đến 30 mmHg trong các bệnh tim trầm trọng như suy tim phải, suy tim toàn bộ hoặc trong trường hợp truyền máu và truyền dịch quá nhiều làm tăng lượng máu về tim từ các tĩnh mạch ngoại vi. Huyết áp tĩnh mạch trung tâm có thể giảm xuống từ -4 đến -5 mmHg tương ứng với áp suất ở môi trường ngoài tim và trong khoang màng phổi khi tim bơm máu mạnh xuống tâm thất phải hoặc khi lượng máu tĩnh mạch ngoại vi về tim ít đi trong các trường hợp mất máu.
Trong lâm sàng, huyết áp tĩnh mạch thay đổi theo tình trạng bệnh tăng huyết áp tĩnh mạch khi đường dẫn máu về tim bị cản trở ví dụ chèn ép trong suy tim phải hoặc suy tim toàn bộ. Giảm huyết áp tĩnh mạch gặp trong sốc. Khi sốc, mao mạch giãn rộng nên chứa nhiều máu làm giảm lượng máu về tim.
Điều hòa tuần hoàn tĩnh mạch
Tĩnh mạch có khả năng co giãn. Nhưng giãn nhiều hơn co vì tĩnh mạch có ít sợi cơ trơn hơn động mạch. Các yếu tố ảnh hưởng đến tuần hoàn tĩnh mạch là:
- Nhiệt độ: khi lạnh tĩnh mạch co, khi nóng tĩnh mạch giãn.
- Nồng độ các chất khí trong máu: nồng độ oxy giảm làm co tĩnh mạch nội tạng và làm giãn tĩnh mạch ngoại vi. Nồng độ CO2 tăng làm giãn tĩnh mạch ngoại vi.
- Adrenalin làm co tĩnh mạch.
- Histamin làm co tĩnh mạch lớn.
- Pilocarpin, Nicotine, CaCl2 làm co tĩnh mạch.
- Cocaine, Cafeine làm giãn tĩnh mạch.